Thăng Long - Hà Nội thời Nguyễn: Đời sống xã hội (11:20 06/05/2015)


HNP - Thăng Long - Hà Nội thời Nguyễn với hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận, gần tương đương với nội thành Hà Nội ngày nay: Thọ Xương tương đương với quận Hoàn Kiếm và quận Hai Bà Trưng, Vĩnh Thuận tương đương với quận Ba Đình và quận Đống Đa.

Hành cung nhà Nguyễn trên nền điện Kính Thiên nhà Lê (Ảnh: Tư liệu)


Đời Gia Long, Thọ Xương có 194 phường, thôn thuộc 8 tổng; Vĩnh Thuận có 56 phường, thôn, trại, thuộc 5 tổng. Cuối đời Minh Mạng, do sự thay đổi về hành chính một số thôn nhỏ được sáp nhập lại và tổng số phường, thôn có giảm bớt. Thọ Xương còn 116 phường, thôn; Vĩnh Thuận có 27 phường, thôn. Số dân Hà Nội vào giữa thế kỷ XIX, theo ước đoán của một số tác giả nước ngoài, khoảng từ 100.000 đến 150.000 người.

So với những thế kỷ trước, sự phát triển kinh tế của Thăng Long - Hà Nội nửa đầu thế kỷ XIX không được đồng đều. Các phường, thôn, trại, tập trung chủ yếu ở phía Tây và phía Nam chuyên về nông nghiệp kết hợp một số nghề thủ công cổ truyền. Bộ mặt thành thị của Thăng Long - Hà Nội dồn về phía Đông và mở rộng thêm về phía Đông Nam. Đó là khu vực gần tương đương với quận Hoàn Kiếm ngày nay. Sách Đại Nam nhất thống chí đời Nguyễn ghi nhận: “ở quanh phía Đông - Nam tỉnh thành gồm 21 phố, nhà ngói như bát úp, tụ họp các mặt hàng, nhân vật cũng phồn thịnh”. Khu vực này, phố phường dọc ngang như bàn cờ, nhà cửa san sát, cư dân đông đúc. Các đường phố phần nhiều lát gạch ở lòng đường, rộng chừng 1m; nhưng cũng có phố, như phố Hàng Ngang, “lát bằng những phiến đá cẩm thạch lớn” (A.Bourrin - Le vieux Tonkin, H. 1941, tr. 36). Cụm kiến trúc Phủ Chúa đã bị phá hủy và vùng xung quanh hồ Hoàn Kiếm cũng nhanh chóng trở thành khu dân cư đông vui với phố Hàng Thêu (Hàng Trống) do người vùng Quất Động, Hướng Dương (Thường Tín, Hà Tây) lập ra, phố Hàng Tiện do người Nhị Khê (cũng thuộc Thường Tín) đến hành nghề, ngõ Hàng Hành có dân nghề da Tam Lâm (Gia Lộc, Hải Dương) cư trú, phố Hàng Sũ là các lò làm đồ mộc của dân Liễu Viên (cũng thuộc Thường Tín)...

Khu trung tâm buôn bán và làm nghề thủ công của Hà Nội thế kỷ XIX là khu nằm ở giữa thành tỉnh và bờ sông Hồng. Khu này nằm trên mảnh đất mà bây giờ ta quen gọi là “Khu phố cổ”. Các phố phường chợ búa tập trung chủ yếu ở khu vực này.

Một khu vực khác chuyển thành khu dân cư là khu đất chung quanh hồ Hoàn Kiếm. Khu vực này nếu như trong các thế kỷ XVII-XVIII đã từng là một nơi nguy nga tráng lệ với các cung điện, dinh thự của vua Lê, chúa Trịnh, thì bây giờ đã thay đổi diện mạo. Các công trình kiến trúc xưa kia đều trở nên hoang phế sau những cơn binh lửa. Một vài công trình mới mang tính chất tôn giáo và văn hóa được dựng lên.



Đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc (Ảnh: Phương Anh)


Quần thể kiến trúc Ngọc Sơn bắt đầu được xây dựng vào các năm 1841,1842 dưới thời Thiệu Trị (1841-1847). Đền này vốn thờ Quan Đế được xây dựng trên một gò đảo vốn tên là Núi Ngọc. Trên bờ hồ phía Đông chúa Trịnh Doanh cho đắp núi Độc Tôn, bờ phía Tây đắp núi Ngọc Bội để kỷ niệm chiến công đánh tan cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương ở vùng có hai ngọn núi Độc Tôn, Ngọc Bội thuộc khu vực Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay. Năm 1843, đền được giao cho một hội thiện quản lý và thờ thêm Văn Xương đế quân [Sau này lại thờ thêm Đức thánh Trần (Trần Quốc Tuấn)]. Vào hai năm 1864 -1865, danh sĩ Bắc Hà Nguyễn Văn Siêu đứng ra sửa lại đền và tạo dựng thêm một số công trình văn hóa cho quần thể di tích này. Nguyễn Văn Siêu cho bắc một chiếc cầu bằng gỗ nối liền bờ và đền. Cầu làm theo kiểu bán nguyệt. Lúc bấy giờ, từ đền Ngọc Sơn ra đến bờ sông chưa có nhà cửa mà chỉ có một bãi dâu rộng mênh mông, do đó ánh nắng ban sớm chiếu xiên từ ngoài sông vào mặt hồ và vào cầu. Vì thế mà Nguyễn Văn Siêu đặt tên cầu là “Thê Húc”, ngụ ý là: “ánh mặt trời ban mai đậu vào cầu”.

Trên núi Độc Tôn, ông cho xây một ngọn tháp bằng đá xanh, hình cái bút lông, gọi là Tháp Bút, thân tháp viết 3 chữ lớn: “Tả thanh thiên” (Viết lên trời xanh), ngụ ý văn chương cần viết những gì cao đẹp, khí phách. Trên cổng phía trong, đặt một cái nghiên mực bằng đá, gọi là Đài Nghiên.
 

Tháp Bút (Ảnh: Phương Anh)
 

Năm 1842, trên nền cũ của lầu Ngũ Long, Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội - Ninh Bình) Nguyễn Đăng Giai cho xây dựng ngôi chùa Báo Ân. Chùa xây dựng với quy mô lớn, trên một khoảng đất rộng gân 100 mẫu. Chùa trông ra hồ Hoàn Kiếm, mặt sau chùa dựa vào đê. Chùa làm hơn 4 năm mới xong, rộng 180 gian và có 36 nóc. Chùa còn có nhiều gác chuông, tháp, trong đó, có tháp Hòa Phong (đón Gió Lành) ở phía trước cổng, ngay bên bờ hồ Hoàn Kiếm, hiện nay vẫn còn. Bốn mặt chùa có một hào nước uốn quanh, bao bọc lấy chùa. Trong hào có trồng sen, nên người đương thời gọi là chùa Liên Trì, và cũng có người gọi là chùa Quan Thượng, vì do một viên Tổng đốc (hàm Thượng thư) dựng lên.

Văn Miếu đã có ở Thăng Long - Hà Nội, từ thế kỷ XI (l070), được các đời sau tiếp tục tu bổ, tân trang. Các vua nhà Nguyễn đôi khi cũng tu bổ thêm. Năm 1802, Gia Long cho xây Khuê Văn Các và bỏ nhà Thái học (phía sau Văn Miếu) chuyển làm điện Khải Thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Năm 1809, lấy cớ Văn Miếu ở các thành phủ lấy Văn Miếu kinh sư làm chuẩn, Gia Long đưa Chu Văn An ra ngoài, không để thờ tại Văn Miếu Thăng Long nữa.

 


Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Ảnh: Phương Anh)
 

Trường thi Hương, từ thế kỷ XVIII trở về trước, đặt ở Quảng Bá, gần Hồ Tây, đến đầu thời Nguyễn được đưa về khu vực phố Trường Thi (địa điểm Thư viện Quốc gia ngày nay) đặt ở gần hồ Hoàn Kiếm. Đến năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), triều đình cho xây gạch xung quanh, chu vi 182 trượng 1 thước (728 m), bên trong gồm 21 tòa, đường, viện.

Năm 1813, Gia Long cho dựng Cục Bảo Tuyền ở cửa Tây Long ngoài thành (ở khoảng đầu phố Tràng Tiền ngày nay). Lấy Cai cơ Trương Văn Minh làm Bảo Tuyền cục đại sứ, Hiệp tổng trấn Bắc Thành Lê Chất kiêm lãnh Giám đốc. Năm Thiệu Trị thứ 1 (1841), Cục Bảo Tuyền đổi tên thành Cục Thông Bảo.

Mặc dù không còn giữ vị trí là kinh đô của cả nước, nhưng đời sống văn hóa của Thăng Long - Hà Nội ở thế kỷ XIX cũng không có gì giảm sút so với các thế kỷ trước. Không khí học tập ở Hà Nội vẫn sôi nổi như xưa, mặc dù có thiếu đi những kỳ thi Hội trước kia, cứ ba năm một lần tại triều đình. Văn Miếu Hà Nội vẫn là nơi mỗi tháng đôi lần các danh nho, danh sĩ tới bình văn giảng sách như ở thời Lê - Trịnh. Khoảng giữa thế kỷ XIX, ở Hà Nội có nhiều trường tư, nhiều quán trọ được mở ra, đón học trò và kẻ sĩ khắp nơi về trọ học và đi thi.

Một trong những ngôi trường nổi tiếng ở Hà Nội ngày ấy là trường Tự Tháp của ông Nghè Vũ Tông Phan (1804-1862). Khi đó trường học là một ngôi nhà năm gian dựng ngay bên mép hồ Hoàn Kiếm, có thể tương ứng với các số nhà 14 và 16 phố Lê Thái Tổ (mặt sau là báo Nhân Dân).

Một trường khá nổi tiếng nữa là trường Phương Đình của danh sĩ Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872), dấu tích còn lại ở nhà số 12 - 14 phố mang tên ông, đó là đất giáp Giang Nguyên, thôn Cổ Lương, tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương cũ. Đây là khu nhà cũ của Thầy Siêu, nơi đó ông đã mở trường dạy học. Hiện nay, số nhà 20 phố Nguyễn Văn Siêu chính là đình cũ của giáp Giang Nguyên, vẫn có kê bàn thờ ông. Và đình của thôn Cổ Lương thì ở trong ngõ số nhà 28, từng là nơi mà học trò tứ trấn thường xin ở đậu, ngủ nhờ trong thời gian về Hà Nội, nghe thầy Phương Đình giảng bài. Hoặc số nhà 7 phố Tràng Thi là đất trường Vũ Thạch cũ, tức là trường của ông Cử nhân làng Vũ Thạch, huyện Thọ Xương: Nguyễn Huy Đức (1824-1898), một nhà nho yêu nước. Ngoài ra, còn có các trường đáng kể nữa như trường của các ông Phạm Hội ở thôn Tự Tháp (Hàng Trống); ông Đốc Mọc Lê Đình Diên ở Ô Nghĩa Dũng (Hàng Đậu); ông cử Kim Cổ Ngô Văn Dạng ở phố Hàng Hài (đầu phố Hàng Bông). Lớp nho sinh Hà Nội của các trường nói trên, sau này đã có rất nhiều người đỗ đạt, làm nên các bậc đại thần, nhưng phần lớn vẫn tỏ lòng kính trọng và biết ơn của mình đối với người thầy cũ, như trường hợp của các Hình bộ Thượng thư Nguyễn Trọng Hợp, Lại bộ Thượng thư Nguyễn Tư Giản, Khâm sai Vũ Duy Ninh đối với người thầy đáng kính: ông Nghè Tự Tháp Vũ Tông Phan.

Một di tích văn hóa nữa, hiện còn lại ở Hà Nội là Văn Chỉ của huyện Thọ Xương cũ ở số nhà 222 phố Bạch Mai rẽ vào. Văn Chỉ, có nghĩa là “nền văn”. Ngày trước ở các làng xã nước ta, thường đắp một nền cao, xây ban thờ bằng gạch, làm chỗ tế lễ các ông thánh, ông hiền của đạo Nho. Như vậy, Văn Chỉ là cái nền lộ thiên và kiến trúc rất sơ sài.

Nhưng Văn Chỉ huyện Thọ Xương còn lại đến ngày nay được xây dựng khá quy mô, chẳng khác nào một tòa đền miếu. Do đó, có tài liệu gọi đây là Văn Từ (Đền Văn). Song cái tên Văn Chỉ đã quá quen thuộc với người dân Hà Nội rồi... Văn Chỉ này xây vào năm 1838 và đã trải qua nhiều lần sửa chữa. Hiện vẫn còn Bảng Tiên hiền, ghi tên họ những nhà nho đạo cao đức trọng là người huyện Thọ Xương hoặc di cư tới như: Vũ Thạnh, Phạm Đình Hổ, Phạm Quý Thích...

Nói về đời sống đô thị Thăng Long - Hà Nội, chúng ta không thể không nhắc đến một yếu tố ngoại lai, một thành phần cư dân ngoại tộc, tuy về số lượng không nhiều, nhưng lại giữ một vai trò kinh tế rất quan trọng, đó là tầng lớp thương nhân Hoa kiều.

Do nhiều nguyên nhân khác nhau, Hoa kiều đã có mặt và sinh sống ở Thăng Long từ khá sớm, chậm nhất là vào thời Lê sơ. Vào đầu thế kỷ XV, trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi đã có nói đến một phường “Đường nhân”, tức là những Hoa kiều sinh sống và buôn bán ở Thăng Long (nay là phố Hàng Ngang). Sự có mặt của Hoa kiều làm ăn buôn bán bên cạnh những người Việt Nam không những là một nét đặc trưng của Thăng Long - Hà Nội, mà còn là hiện tượng phổ biến trong các thành thị Việt Nam thời trung đại. Đợt di cư hàng loạt của Hoa kiều vào Thăng Long có lẽ được thực hiện vào cuối thế kỷ XVII. Từ đó đến suốt cả thế kỷ XVIII, một mặt, các Hoa kiều di cư vào Việt Nam đã cố gắng len lỏi để cư trú và làm ăn buôn bán tại kinh thành Thăng Long, nhưng mặt khác họ cũng bị Nhà nước phong kiến nhiều lần hạn chế, cấm đoán, ngăn chặn.

Bước sang thế kỷ XIX, tình hình đã đổi khác. Nhà Nguyễn, đặc biệt là Gia Long, đã có một chính sách nhượng bộ đối với nhà Thanh, ưu đãi Hoa Kiều. Mặt khác kinh đô giờ đây đã chuyển về Huế, nhà Nguyễn không cần đề phòng cẩn mật đối với Thăng Long - Hà Nội nữa. Được dịp “các Hoa kiều đã ồ ạt di cư sang Việt Nam và tràn vào Thăng Long - Hà Nội trong suốt nửa đâu thế kỷ XIX” (Nguyễn Thừa Hỷ: Thăng Long - Hà Nội... Sđd, tr. 159). Những người ở lại sinh sống, học tiếng Việt Nam, lấy vợ Việt Nam, trở thành người Minh Hương, một loại người Việt gốc Hoa.

Ở hội quán Việt Đông phố Hàng Buồm có một tấm bia khắc năm 1801, có ghi: “Từ khi nhà vua mở nước cho người ngoại quốc, hàng loạt Hoa kiều đã muốn được đức Hoàng đế gia ân, đường sá và chợ quán đầy ắp khách thương... Thành Thăng Long là nơi đầu tiên của An Nam, từ lâu đã buôn bán nhiêu đồ vật quý của Quảng Đông, tầu thuyền đem đến đây tất cả mọi thứ hàng hóa” (Nguyễn Thừa Hỷ: Thăng Long - Hà Nôi... Sđd, tr. 159).

Ở Hà Nội, Hoa kiều lập ra 4 bang tương ứng với 3 tỉnh và 1 khu vực là quê hương gốc của họ: Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam và Triều Châu. Trong đó 2 bang Quảng Đông và Phúc Kiến bao gồm phần lớn các khách thương giàu có. Bang Phúc Kiến đến định cư vào năm 1817 tập hội quán ở phố Phúc Kiến (nay là nhà số 40 phố Lãn Ông), cách ăn ở giữ nhiều lề thói cũ của địa phương. Bang Quảng Đông, người đông hơn, quá nửa ở phố Việt Đông hay Quảng Đông (nay là phố Hàng Ngang), một phần lớn ở phố Hàng Buồm, lan sang các ngõ xung quanh như ngõ Sầm Công, Ngõ Gạch. Hội quán của họ được xây từ năm Canh Thân (1800) ở phố Hàng Buồm, ngoài mặt có hàng chữ “Việt Đông hội quán” (số 22 phố Hàng Buồm), có nhiều cơ quan phụ thuộc, trường học. Họ phần lớn là những phú thương, ở các đường phố rộng lát đá, xây nhiều cổng phố chắc chắn, nhiều nhà lợp ngói, to cao.

Năm 1832, Tổng đốc Hà - Ninh Nguyễn Văn Hiếu tâu lên vua Minh Mệnh rằng: Hai phố Hàng Buồm và Quảng Đông ở huyện Thọ Xương tỉnh Hà Nội, phần nhiều là người Thanh, hiện đã gây thành cơ sở.

Cùng năm 1832, triều đình sai Hà Nội chọn đặt chức Hàng trưởng ở hai phố Quảng Đông và Phúc Kiến, để nếu như Nhà nước có mua sản vật ở hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến, thì cứ liên hệ với hai viên Hàng trưởng ấy. Không biết được chính xác số lượng Hoa kiều ở Hà Nội vào thế kỷ XIX, nhưng chắc chắn là đông đúc, đây là thành phố nhiều Hoa kiều nhất ở Bắc Kỳ thời bấy giờ. Đại Nam nhất thống chí nhận xét: Thành thị [Hà Nội] là nơi tụ họp công thương, người nước Thanh tập tục thích xa hoa... (Đại Nam nhất thống chí Sđd, tập III, tr. 165).

Các Hoa kiều nhập cư vào Thăng Long - Hà Nội thường là hoạt động buôn bán hàng tạp hóa (nhập từ Quảng Châu sang) như: gấm vóc, thuốc Bắc, hoặc mở tiệm “cao lầu”... Một số phú thương Hoa kiều lại tập trung vào mấy ngành buôn bán xuất nhập khẩu chính: gạo, thuốc phiện, muối, thiếc và một số các mặt hàng khác như: tơ lụa, giấy. Tại Thăng Long - Hà Nội, đã xuất hiện quy mô buôn bán lớn với các tuyến giao lưu đường dài, hàng bán buôn và hình thức bao mua sản phẩm đối với các nông dân và tiểu chủ. Nhưng trong việc buôn bán, thương nhân Hoa kiều cũng có nhiều mánh lới, thủ đoạn. Lợi dụng tính chuộng ngoại của thị dân Hà Nội, các Hoa thương Hà Nội đã mua tơ lụa của chính người Việt ở Hà Nội, cải biến chút ít rồi lại bán giả làm hàng Trung Quốc cho người Việt.

Năm 1827, chính vua Minh Mệnh có nhận xét: Các tấm hàng gọi là sa, vân, tơ xét kỹ ra là hàng của nước nhà. Rõ ràng là người Thanh ở Hà Nội hay các tỉnh mua về đem nhuộm lại rồi in dấu khác vào, giả làm hàng của nước Thanh. Vì vậy, nhà vua đã ra lệnh từ nay về sau, phàm dân gian dệt được các thứ hàng tơ như lĩnh, lụa, sa, trừu và tơ cân, không cứ tơ sống hay tơ chín, đều không được bán cho người nhà Thanh để xuất khẩu.

Như vậy, dựa vào số vốn lớn và những thủ đoạn buôn bán khôn khéo, lợi đụng chính sách ưu đãi Hoa kiều và chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Nguyễn, các Hoa thương ở Hà Nội đã tìm mọi cách nắm độc quyền trong ngành xuất nhập khẩu. Mặt khác, họ cũng tìm cách lũng đoạn các ngành công thương nghiệp trong nước, khống chế các nông dân và thợ thủ công bằng hình thức cho vay vốn và bao mua sản phẩm. Trong kết cấu kinh tế - xã hội của Thăng Long - Hà Nội, họ chính là tầng lớp đại phú thương.


Theo thanglonghanoi.gov.vn


Các bài mới đăng

Các bài đã đăng :

Bài viết Xem




Viết bình luận

Họ tên:(*)
Số điện thoại:
Tiêu đề:(*)
Nội dung:(*)
Mã xác nhận:         L?y l?i m� b?o m?t